Bác sĩ Đinh Thạc, Bệnh viện Nhi đồng 1 (TP HCM) cho biết mọi người, mọi lứa tuổi nếu chưa có miễn dịch với virus viêm não Nhật Bản đều có thể mắc bệnh. Trên thế giới, tại những vùng viêm não Nhật Bản lưu hành, bệnh thường gặp ở trẻ dưới 15 tuổi. Việt Nam tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở nhóm trẻ 5-9 tuổi.
Người lớn có nguy cơ bị lây nhiễm nếu chưa từng được tiêm ngừa, thường đi du lịch, hợp tác lao động hoặc công tác vào vùng bệnh viêm não Nhật Bản đang lưu hành. Bệnh nếu không phát hiện sớm và chữa trị kịp thời khả năng dẫn đến tử vong. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân chiếm khoảng 30%. Nếu may mắn giữ được tính mạng thì cũng có khoảng 1/3 mang nhiều di chứng nặng nề về thần kinh như liệt, chậm phát triển tâm thần, co giật, động kinh. Một số trường hợp có thể bị mất khả năng ngôn ngữ hoặc không nói được, mất trí nhớ, cử động bất thường ngoài ý muốn như run rẩy, uốn éo, gồng cứng người…
Trẻ thở máy điều trị viêm não Nhật Bản tại Bệnh viện Nhi đồng 1. Ảnh: Lê Phương. |
Theo bác sĩ Thạc, bệnh lây theo đường máu, do muỗi đốt hút máu động vật nhiễm virus rồi đốt người. Virus được truyền qua vết đốt của muỗi cái, từ tuyến nước bọt có chứa virus. Năm 1938 các nhà khoa học người Nhật Bản đã tìm ra vai trò truyền bệnh của loài muỗi có tên Culex Tritaeniorhynchus, sau đó xác định được vai trò vật chủ và ổ chứa chính của virus gây bệnh là loài lợn và chim.
Ở nước ta loài muỗi này có nhiều ở miền Bắc, xuất hiện nhiều vào những tháng mùa nóng, ban ngày sống trong các bụi cây ngoài vườn, đêm bay vào nhà hút máu gia súc và đốt người, thường vào thời điểm từ 18 đến 22h. Muỗi thích đẻ trứng trong ruộng lúa, mương.
Bệnh viêm não Nhật Bản không lây trực tiếp từ người sang người. Ăn uống chung, dùng chung đồ dùng hoặc tiếp xúc gần gũi với người bệnh cũng không làm lây nhiễm bệnh.
Ở trẻ lớn và người lớn dấu hiệu thường gặp bao gồm những triệu chứng:
– Bệnh thường khởi phát đột ngột với các triệu chứng như sốt cao 39-40 độ C, kèm đau đầu, buồn nôn và nôn. Sau đó dẫn đến co giật, co cứng cơ và lú lẫn.
– Triệu chứng nổi bật trong giai đoạn toàn phát là dấu hiệu ở não, màng não và rối loạn thần kinh thực vật. Dấu hiệu màng não có 2 triệu chứng phổ biến là “cứng gáy” và dấu hiệu Kernig do bác sĩ khám và xác định. Rối loạn vận động thể hiện trên nhiều khuôn mặt như co cứng cơ mặt, cơn quay mắt quay đầu, co giật, run giật, liệt nửa người, mất vận động ngôn ngữ.
– Các triệu chứng thần kinh thực vật rất đa dạng và nặng nề như nhiệt độ cơ thể dao động, xanh tái, rối loạn hô hấp, tăng tiết đờm dãi, nhịp tim nhanh, chướng bụng, nôn, bí đại tiểu tiện và ngừng hô hấp đột ngột. Các triệu chứng tâm thần chủ yếu là rối loạn ý thức với các mức độ khác nhau từ u ám, ngủ gà đến hôn mê sâu.
Ở trẻ nhỏ, các dấu hiệu không điển hình và khó phát hiện hơn, thường dựa vào một số triệu chứng quan trọng là nôn ói nhiều, thóp phồng, khóc không thể dỗ nín hoặc khóc tăng lên khi trẻ được bế hoặc làm thay đổi tư thế, gồng cứng người.
Hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu đối với bệnh viêm não do virus. Mặc dù đã có thuốc kháng virus nhưng thuốc chỉ có tác dụng với một số loại virus chứ không phải tất cả. Điều trị bệnh viêm não Nhật Bản chủ yếu là điều trị triệu chứng ở người bệnh, phối hợp hỗ trợ và nâng đỡ giúp nâng cao thể trạng và sức khỏe.
Trẻ nhỏ cần được điều trị tại những bệnh viện chuyên khoa có đủ phương tiện theo dõi và can thiệp kịp thời những biến chứng nguy hiểm, giúp khỏi nguy kịch và giảm đến mức thấp nhất di chứng nặng nề có thể xảy ra sau khi khỏi bệnh.
Việc phòng bệnh được Bộ Y tế khuyến cáo gồm:
– Thực hiện tốt vệ sinh môi trường, giữ gìn nhà ở, chuồng gia súc sạch sẽ để hạn chế nơi trú đậu của muỗi. Nên dời chuồng gia súc xa nhà, xa nơi sinh hoạt của trẻ em, loại bỏ các ổ bọ gậy.
– Ngủ mùng để tránh muỗi đốt, thường xuyên sử dụng các biện pháp chống và diệt muỗi trong các hộ gia đình, không cho trẻ em chơi gần chuồng gia súc đề phòng muỗi đốt.
– Tiêm văcxin viêm não Nhật Bản đầy đủ và đúng lịch là biện pháp phòng bệnh quan trọng và hiệu quả nhất hiện nay. Việc tiêm chủng sẽ được áp dụng cho trẻ em từ 12 tháng tuổi và người lớn.
– Tiêm chủng với 3 liều cơ bản: mũi thứ 2 tiêm sau mũi thứ nhất từ 1-2 tuần, mũi 3 tiêm sau mũi 2 một năm. Sau đó cứ ba năm tiêm nhắc lại một lần cho đến khi trẻ qua 15 tuổi.